25 thg 7, 2014

Y LÝ

(Trích bài viết của Sư Phụ Chưởng Môn Nam Huỳnh Đạo)
Y lý Đông phương đã nâng tầm nhận thức của võ thuật, trực tiếp hoàn thiện “sức năng” của con người tham gia vào đời sống võ giới, và trên hết, chính bản chất “Dưỡng sinh” của Y lý là một trong những nhân tố then chốt để Võ thuật đạt đến Võ đạo. “Nội Cảnh Đồ” là một trong những nội dung cụ thể mang tính phương tiện trong nhận thức của Võ gia trong kỹ năng “luyện khí”.
NỘI CẢNH ĐỒ
Trong miệng ta có Họng và Hầu, đều chung một cuống. Hầu ở đằng trước, chủ về hô hấp, Họng ở đằng sau, chủ về ăn uống. Khi ăn uống, thức ăn không tràn vào “Hầu” được là nhờ có “Lưỡi gà” đậy lại. Chỗ cuống họng thông với khí quản gọi là Thanh quản, nơi đây vật gì vướng vào là bị sặc.
Dưới Hầu có Phế, chủ khí, làm trách nhiệm điều hòa tiết chế. Lá phổi hình như cây dù, sắc trắng, có 6 lá, 2 lỗ, che úp lên trên các tạng, giáp gần đốt xương sống số 3, bên trong có 24 lỗ trống như tổ ong, ở dưới không có lỗ, công năng dẫn khí vào các tạng, khi thở thì xẹp, khi hít thì nay. Ta luôn luôn hít thở để gạn lọc chất thanh trọc. Phế như cái chợ, các mạch đều hội họp ở đó. Kinh này nhiều khí ít huyết, hợp với da, vinh nhuận ở lông, khai khiếu ở mũi.
Dưới Phế có tạng Tâm, là động lực của huyết dịch, là chủ tể hoạt động sự sống con người. Tâm chủ quản mắt, tinh thần ý chí, huyết mạch. Tâm là Quân chủ. Tâm quán thông với Phế. Tâm ở dưới phế quản, trên chẽn dừng ngang với đốt xương thứ 5, hợp với huyết mạch , vinh nhuận ra hình sắc, khai khiếu ở lưỡi, các tạng Can, Đảm, Tỳ vị, Đởm, Bàng quang, đều có đường dây gắn vào cạnh Tâm Bào Lạc để thông với Tâm, kinh này ít khí nhiều huyết.
Ở dưới Tâm có Tâm Bào Lạc gọi là Đản Trung, đóng vai tró Thần Sứ, giống như cái chậu để ngửa, Tâm ở vào giữa. Tâm Bào Lạc bảo vệ cho Tâm, nếu có ngoại tà thì sẽ phạm vào Bào Lạc trước, còn vào đến Tâm là chết.
Ở dưới Tâm Bào Lạc có Gan, chủ sơ tiết, điều đạt khí cơ của toàn thân , tính nó hoạt động nhiều, ít khi yên tĩnh, cơ mưu đều phát xuất từ đó. Nó ở dưới chẽn dừng ngang với dạ dày, ở vào khoảng xương sống số 9. Đường dây của nó liên hệ với Tâm Bào, là nơi Huyết Hải, thông lên mắt, bên trái có 3 lá, bên phải có 4 lá, vị trí ở phía trước có cật và mạn sườn bên trái nên tác dụng của nó về bên trái , ứng hợp với Gân, vinh nhuận ra ngoài ngón, khai khiếu ở mắt, kinh này nhiều huyết ít khí .
Chỗ lá gan ngắn có Đởm (túi mật) công năng của nó rất khác biệt so với các phủ, nên gọi là Phủ Ký Hằng, chủ yếu tàng chứa nước mát mật (là dịch thể trong sạch). Sự quyết đoán phát xuất từ đó. Mật tinh vi, sắc nước gần như vàng, không có lỗ ra vào, thấy nóng mà đắng miệng là Đởm khí trào lên, khai khiếu ở cuống họng. Kinh này có nhiều huyết ít khí.
Từ cổ họng đến Vị (dạ dày) thường gọi là cuống họng, đến cuống họng thì đến chẽn dừng, dưới chẽn dừng có Dạ dày, là chức vụ kho tàng Ngũ vị phát xuất từ đây, là nơi chứa các thức ăn uống để sinh huyết khí. Công năng làm chín nhừ thức ăn, còn gọi là bể chứa Thủy cốc. Vị chủ tiếp nhận, Tỳ chủ vận hóa, các chất tinh ba truyền vào Tiểu trường, chất cặn bã thì dồn ra Đại trường đến ruột cùng (quảng trường) tống xuất ra ngoài. Nghĩa chữ Vị là “hội họp”, có hai đường, đường trên đưa ran gang Phế hệ và cuống họng, đường dưới tiếp với Tiểu trường gọi là U môn. Vịụ chủ quản việc tiêu hóa, hấp thu, vận chuyển thức ăn, Tỳ chủ tiêu hóa thêm lần nữa sau Vị . Tỳ chung sức với Phế, Thận đảm bảo sự thăng bằng, chức năng kho tàng chứa Ý và Trí. Nó hợp với thịt, vinh nhuận ra ngoài môi, khai khiếu ở miệng, kinh này nhiều khí ít huyết .
Bên phải của Vị là Tiểu trường, có chức năng đựng thức ăn được biến hóa, tiếp tục gạn lọc, phía sau gần vào cột sống, phía trước giáp với rốn , gấp cuộn lại 16 khúc, miệng trên của Tiểu trường tức là miệng dưới của Dạ dày là U môn, miệng dưới của Tiểu trường là Lan môn, gạn lọc ra chất trong đục, thấm vào Bàng quang và cặn bãra Đại trường. Kinh này nhiều huyết ít khí.
Bên phải của Tiểu trường là Đại trường (gọi là Hồi trường) chức năng đùn đẩy biến hóa, là con đường làm thủy cốc lưu thông. Nằm bên trái rốn, quanh co, gấp xếp lại xuôi xuống, cũng có 16 khúc. Quảng trường tức chỗ Hồi trường to, áp gần cuối xương sống để tiếp thu những chất do Hồi trường dồn xuống, nơi đây bài tiết cặn bã. Trực tràng là đoạn cuối của Quảng trường, giáp Hậu môn. Kinh này nhiều huyết ít khí.
Bên trái Quảng trường là Bàng quang, công năng tích động và bài tiết, còn gọi là bọng đái,ở ngang xương sống thứ 19 và dưới quả thận, trước Đại trường. Bàng là đường thủy, Quang là chất nó đỏ trắng sáng, ở trên không có lỗ, chỉ có ở dưới. Kinh này nhiều huyết ít khí.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét